Cuộc tẩu thoát táo bạo: Hành trình một nhân viên ngân hàng Mỹ giải cứu 113 thường dân Việt Nam

Chủ Nhật 14/12/2025

Đầu tháng 4 năm 1975, khi toán lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, các giám đốc điều hành cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan Bank đã đặt lên vai Ralph White, vốn là một nhân viên cấp dưới làm việc tại chi nhánh Bangkok, một nhiệm vụ đầy thách thức: sơ tán 53 nhân viên người Việt đang làm việc tại chi nhánh Sài Gòn. Và như độc giả có thể thấy ở trang bìa của cuốn sách “Rời khỏi Sài Gòn”, ông đã thành công hoàn thành nhiệm vụ ấy. Thế nhưng bấy nhiêu là không đủ để lột tả hết những rào cản to lớn mà ông phải đối mặt, cũng như những giải pháp thông minh, thậm chí gây đứng tim cho người đọc. Trong bài phỏng vấn đăng trên The Christian Science Monitor vào năm 2023, tác giả Ralph White có một số chia sẻ về cuốn sách với phóng viên Erin Douglass, cộng tác viên của Monitor. Nội dung buổi phỏng vấn đã được tác giả gốc biên tập đôi chút để rõ ràng hơn và đảm bảo độ dài phù hợp. 

Nhiệm vụ thành công dường như là nhờ vào những hành động mang tính quyết định của ông, và một trong số đó là dám đứng lên nhận lãnh trách nhiệm với sinh mạng của những con người ấy. Ông có đồng ý với nhận xét này không, và bên cạnh việc đứng lên chịu trách nhiệm, thì còn hành động nào khác mà ông cho là mang tính quyết định đối với thành công này?

Tôi nghĩ là có. Tôi thường nghe người ta nhắc đến “sự kiên trì”, có lẽ đó cũng là một yếu tố góp phần làm nên thành công của chuyến đi. Khi ấy tôi chỉ mới tốt nghiệp trung học được 10 năm, đã vậy còn thiếu chín chắn so với độ tuổi của mình. Lúc ấy tôi đang phiêu bạt, đi đây đi đó khắp Đông Nam Á, rồi bất chợt, bánh răng lịch sử xoay chuyển, khiến tôi ngỡ ngàng.

Tôi nghĩ rằng những viên chức ngoại giao đứng về phía tôi – ông Shep Lowman, viên chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ [ở Sài Gòn] và ông Ken Moorefield, lúc bấy giờ đang là trợ lý của đại sứ tại Trung tâm Kiểm soát Sơ tán (ECC), hai người họ là những nhân tố không thể thiếu đối với thành công của tôi. Còn cả Đại tá [William] Madison tại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché Office) nữa. Những con người ấy chính là yếu tố chính tạo nên thành công của hành trình.

Về phần tôi, tôi sẽ dùng từ “bướng”. Khi ai đó cố gắng ngăn tôi làm điều gì đó mà tôi nghĩ tôi có thể làm, thì tôi sẽ tìm cách làm cho bằng được. Bởi vậy tôi cứ ráng xoay xở đủ đường với đại sứ quán và Tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché). Một yếu tố khác nữa đơn giản là sự may mắn tuyệt đối. Trong cuốn sách, đã hai lần tôi đề cập đến việc mọi thứ đã có thể diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác. Ngay từ đầu, nếu họ chọn anh chàng đầu tiên được giao nhiệm vụ này, anh ta rất có thể sẽ chỉ sơ tán được bốn nhân viên [ngân hàng] rồi coi như đó là thành tựu gì lớn lao lắm. Nhưng không, họ đã chọn tôi.

Một trong những điểm nổi bật trong cuốn sách “Rời khỏi Sài Gòn” chính là khả năng quan sát vô cùng sắc sảo của ông. Ông có thể chia sẻ câu chuyện về “đám mây bụi” giăng khắp Sài Gòn không?

Bốn năm trước sự kiện đó, tôi đã làm việc ở Việt Nam với tư cách là một thường dân, tôi làm cho tờ American Express, nhưng lúc ấy tôi sống và làm việc ở Tây Nguyên. Dạo đó, tôi có ghé Sài Gòn một vài lần, và mặc dù nhiều con đường đã được tráng nhựa, nhưng sẽ luôn có một đám mây bụi dày giăng mắc khắp đường phố Sài Gòn. Khi tôi trở lại vào bốn năm sau, tức khoảng 18 tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết và quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, đám mây bụi đó đã hạ xuống nhiều [chỉ đến độ mắt cá chân]. Trong mắt tôi, hình ảnh đó cũng như một con chó không sủa vậy. Bởi một thứ gì đó đã biến mất khỏi Sài Gòn. Thứ đó tất nhiên, chính sự hiện diện của quân đội Mỹ.

Ông đã phát triển một mối quan hệ hợp tác thú vị với Nga, một cô gái bán hoa trẻ, có anh trai có liên hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thấy ở Nga có điểm gì đặc biệt?

Chúng tôi gặp nhau trong một hoàn cảnh thật bi thảm; tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy. Tôi có thói quen như vầy: Tôi sẽ trả tiền cho những cô gái bán hoa để họ dạy tiếng cho tôi. Tôi đã làm vậy ở Thái Lan, ở Việt Nam và cả những nơi khác. (Nhưng tôi chưa bao giờ làm kiểu “bóc bánh trả tiền” kia đâu.) Đó là một cách học tiếng khá tiết kiệm. Đó là ý định ban đầu khi tôi tìm đến cô ấy. Rồi tôi bắt đầu nhận ra rằng dưới vẻ ngoài gai góc, Nga lại là một người khá lanh lợi và ngọt ngào.

Ông từng có dịp được ngồi trong chiếc Lincoln Continental bóng bẩy của ông Tùy viên Thương mại đại sứ quán (Embassy’s Commercial Attaché). Và cảm giác mất kết nối với thế giới bên ngoài khi ngồi trong con xe đó, dưới ngòi bút của ông, đã thật sự gợi lên nhiều suy tưởng. Liệu ông có thể chia sẻ thêm với các độc giả về khoảnh khắc ấy không?

Khi đi bộ, anh sẽ chú ý được rất nhiều chi tiết xung quanh. Khi đi xe đạp, anh sẽ bắt đầu bỏ lỡ một vài chi tiết. Rồi, khi đi xe hơi, anh sẽ thôi chú ý những chi tiết, nhưng từ trong xe hơi thì vẫn nhìn rõ được bên ngoài, và anh hoàn toàn có thể hạ kính xe xuống để quan sát. Nhưng nếu chiếc xe hơi anh đang đi là một chiếc xe hầm hố chẳng khác gì xe tăng – bọc thép, được trang bị kính chống đạn, còn được lắp điều hòa – thì chắc chắn, anh chẳng thể ý thức được những gì đang xảy ra ngoài kia đâu. Bởi khi mọi âm thanh xung quanh bị dập tắt, thì những suy nghĩ của anh sẽ hướng vào bên trong nhiều hơn bên ngoài.

Sau này tôi mới xâu chuỗi mọi chuyện và ngộ ra rằng cái thứ đó [chiếc Continental] có thể là một phần nguyên nhân tại sao phía Mỹ mù tịt về tình hình bấy giờ, lẽ đương nhiên là ông đại sứ mù tịt, bởi ông ta lúc nào cũng ngồi trong chiếc xe đó. Nếu anh được cơm bưng nước rót tận miệng, vườn tược thì có người chăm lo, con cháu thì có người săn sóc, chó thì được dắt đi dạo, thứ gì cũng có người làm cho, còn anh chỉ việc lái chiếc Continental đi đó đây, hằng ngày ở trong những căn phòng hạng sang, thì làm sao mà anh có thể ý thức được về những gì đang xảy ra cơ chứ. Tôi nghĩ chắc cũng có những ông đại sứ sẽ đi lang thang vào văn phòng cấp thấp nhất và hỏi han kiểu: “Hôm nay có vấn đề gì không?” nhưng trong số đó không có [Đại sứ] Martin.

Đã gần 50 năm trôi qua kể từ cuộc sơ tán ấy. Trong số hơn một trăm thường dân Việt Nam mà ông đã giúp đỡ (và đã giúp đỡ ông), ông còn giữ liên lạc với những ai?

Tính đến khi tôi hoàn thành bản thảo, hình như đầu năm 2020, tôi chưa liên lạc được với bất kỳ [đồng sự] người Việt nào. Tôi đã rất nỗ lực tìm kiếm, nhưng chẳng có kết quả gì.

Rồi tính bướng của tôi nổi lên! Tôi tìm thấy sáu hội nhóm người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Mỗi hội đều có thư thông báo, và tất cả họ đều đang khao khát có một tin thật ấn tượng để đăng lên. Vì vậy tôi đã nhắn cho họ, nói rằng Ralph White, trước đây làm việc ở Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn, giờ đang tìm kiếm các đồng nghiệp cũ của mình. Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ chủ tịch Hội người Mỹ gốc Việt tại New Jersey, anh Tony Nguyễn. Và anh ấy nói, “Này Ralph, tôi biết anh đã làm được những gì. Cha tôi bị bắt ở Sài Gòn sau mùa thu, sau đó ông ấy phải vào trại cải tạo lao động trên rừng trong suốt 10 năm. Người của anh đã suýt phải chịu cảnh tương tự… nhưng chính anh đã cứu họ. Tôi muốn mời anh đến tham dự Gala Tết Nguyên đán của hội chúng tôi.”

Vậy nên tôi đã cùng bạn gái đến đó; về cơ bản chỗ đó là một phòng tập thể dục nối liền với một trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Piscataway, New Jersey. Theo như tôi nhớ, chúng tôi là những người da trắng duy nhất ở đó. Một người phụ nữ ngồi cạnh tôi và hỏi: “Anh đang làm gì ở đây? Anh có đi nhầm phòng không đấy?” Tôi chỉ đảo mắt bởi lời tôi sắp nói ra với cô ấy có lẽ sẽ nghe vô cùng ngớ ngẩn. “Tôi đang cố gắng tìm các cựu nhân viên của Ngân hàng Chase Manhattan Bank chi nhánh Sài Gòn.” Rồi cô ấy đáp, “Ồ, tôi biết một người làm ở chỗ Chase Saigon… đó đó, cô ấy là bạn thân tôi!” Thế là tin Ralph White xuất hiện cứ càng truyền càng xa, vì vậy tôi đã nhận được nhiều cuộc gọi từ Orlando và Houston và San Francisco … tất cả đều đến từ những người khi xưa tôi từng quen biết. 

Ông có muốn chia sẻ gì thêm không?

Có một điều tôi không nhắc đến trong sách, và cả [Ken Moorefield] cũng chưa biết, đó là tôi đã đề cử ông ấy nhận Huân chương Tự do của Tổng thống. Đó là để tôn vinh sự dũng cảm của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Trung tâm Kiểm soát Sơ tán, khi dám đưa 113 người của tôi – và tôi nghĩ là cả vài ngàn người xuất cảnh trái phép khác nữa – rời khỏi Sài Gòn. Sau này ông ấy lại tiếp tục làm đại sứ ở châu Phi.

Kể từ sau khoảnh khắc ấy, ông đã ghé lại thăm Việt Nam lần nào chưa?

Tôi đang có kế hoạch về thăm Việt Nam. Cuối năm nay, tôi sẽ chọn một khoảng giữa mùa mưa và mùa nóng, để xem liệu tôi có thể lang bạt và ghé lại những chốn cũ không.

Thục Uyên dịch từ CSMonitor

Sách Rời Khỏi Sài Gòn là câu chuyện có thật và đầy cảm xúc của Ralph White – một nhân viên ngân hàng Mỹ đã liều mình vượt quyền để giải cứu 113 nhân viên và gia đình người Việt trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn tháng 4/1975. Với giọng kể chân thành, hài hước và đầy nhân văn, cuốn sách là minh chứng cho lòng dũng cảm và tình người giữa thời khắc hỗn loạn của lịch sử.

Thiên Long
faber castell
keyroad
maped
milan
pentel
pilot
sakos
Bitex
toty
loader