Nghìn Lẻ Một Ngày (Bộ 2 cuốn)
Nghìn Lẻ Một Ngày
Bộ truyện A Rập Nghìn lẻ một đêm và bộ truyện Ba Tư Nghìn lẻ một ngày có thể coi như hai anh em sinh đôi. Không chỉ bởi tên sách và thời gian ra đời của chúng: Mười tập Nghìn lẻ một đêm do nhà Đông phương học Antoine Galland chuyển từ tiếng A Rập sang tiếng Pháp ra mắt bạn đọc từ năm 1704 đến năm 1711 tại Paris - sau khi ông mất, còn ra thêm hai tập nữa. Năm tập của Nghìn lẻ một ngày do một nhà Đông phương lỗi lạc khác là François Pétis De La Croix thực hiện từ nguyên bản tiếng Ba Tư, được xuất bản cũng tại Paris từ năm 1710 đến năm 1712.
Cấu trúc hai bộ truyện giống nhau: Có một truyện mở đầu làm khung cảnh để từ đấy nhìn ra một khoảng trời và lung linh muôn vàn vì sao cổ tích, ở đó người trần thế và thần linh chung sống với nhau, thực hư trộn lẫn, trí tưởng tượng bay bổng lên thiên đàng, xuống địa ngục rồi trở về trái đất, bên cạnh nhiều chi tiết huyễn hoặc là cuộc sống thực tại được miêu tả bằng những nét bút tả chân... Truyện mở đầu xác lập vị trí của người dẫn chuyện và ấn định chủ đề.
Ở bộ truyện trước: Nghìn lẻ một đêm, một cô gái trinh kể chuyện nhằm làm vui tai một tên bạo chúa. Tên này để trả thù bà hoàng hậu thất tiết, đã quyết định cứ mỗi đêm bắt một cô gái trẻ vào thỏa mãn dục vọng rồi sáng hôm sau sai chém đầu ngay, cho người đàn bà ấy không còn có cơ hội ngoại tình nữa. Câu chuyện cô kể do đó bắt buộc phải hấp dẫn, truyện trước mở nút kéo truyện sau nhập cuộc; truyện sau phải hay, phải mới hơn truyện trước; và bao giờ câu chuyện cũng phải ngưng lại nửa chừng ở đoạn gay cấn nhất, để vua bằng lòng chờ đến sáng hôm sau - có nghĩa hoãn bản án tử hình thêm một ngày.
Ở bộ truyện sau: Nghìn lẻ một ngày, một bà vú nuôi kể chuyện theo yêu cầu của một vua cha. Bà tự nguyện làm người kể chuyện hầu nàng công chúa mắc một chứng bệnh điên khùng: ghét đàn ông tới mức bày cách hãm hại những chàng hoàng tử bất hạnh đam mê sắc đẹp của nàng dám cả gan đến ngỏ lời cầu hôn. Bà nhũ mẫu tự đề ra nhiệm vụ: qua các truyện kể của mình, chứng minh người trần mắt thịt cũng như các vị thần linh có phép màu biến hóa, không thiếu những mối tình chung thủy; không thiếu những chàng trai bất chấp thăng trầm một lòng thủy chung với người tình: “Trong đời chỉ nên yêu một lần, song đã yêu thì yêu đến trọn đời.” Bà phải kể sao cho truyện sau hấp dẫn hơn truyện trước, để nàng công chúa cưng không chán, tiếp tục nghe kỳ đến lúc khỏi bệnh và chịu đi tìm người làm chồng mới thôi.
Các truyện kể trong hai bộ truyện do đó độc lập với nhau, mỗi truyện là một thể hoàn chỉnh song đều có quan hệ chằng chịt, thậm chí có chung một nhân vật chính, được gắn kết lại theo cách móc xích, móc nào cũng có thể coi là móc chính. Hoặc theo lối ngăn kéo: truyện trước chứa truyện sau, truyện sau đựng truyện sau nữa, cứ thế kéo dài tưởng như vô hồi kỳ trận, cho đến sau một nghìn lẻ một đêm (hoặc một nghìn lẻ một ngày) mới thắt nút lại và kết thúc.
Kết thúc truyện nào cũng có hậu: Ở bộ truyện trên, sau nghìn lẻ một đêm, người kể chuyện sinh hạ cho nhà vua ba hoàng tử xinh như mộng, không những được tha tội chết mà còn được phong làm hoàng hậu. Ở bộ truyện dưới, sau nghìn lẻ một ngày, nàng công chúa điên khùng rời hoàng cung bôn ba đi tìm chàng trai làm mình say đắm - một hoàng tử, đương nhiên - để rồi khi hoàng tử lên nối ngôi cha, sẽ trở thành hoàng hậu.
Hai bộ truyện còn giống nhau ở sự thành công vang dội. Thành công của bộ Nghìn lẻ một đêm, theo các nhà nghiên cứu, chưa từng có ở Pháp hoặc bất kỳ một nước nào trước đó. Trong vòng bảy mươi tám năm, từ khi tập I đến với bạn đọc (năm 1704) cho đến năm 1782, nó được tái bản 70 lần. Từ tiếng Pháp, bộ truyện A Rập được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ chính ở châu Âu, đi vòng quanh thế giới, và được dịch trở lại tiếng A Rập. Nó gợi đề tài và cảm hứng cho người đời sau sáng tạo nên nhiều không kể xiết những vở kịch nói, ca kịch, nhạc kịch, điện ảnh, hội họa... lừng danh trên thế giới. Đề tựa bản dịch hoàn chỉnh xuất bản bằng tiếng Nga, đại văn hào Maxime Gorki đánh giá bộ sách là “di sản tuyệt diệu và đồ sộ nhất của sáng tác truyền khẩu dân gian”, là “một công trình dệt gấm bằng từ ngữ, phủ lên trái đất một tấm thảm đẹp lạ lùng.” Một điều thú vị nữa, một văn hào khác sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha là Gabriel Marquez, người giành Giải thưởng Nobel về văn chương, trong cuốn đầu bộ hồi ký ba tập công bố năm 2003 cho biết, cuốn sách tập đọc đầu tiên của cậu bé Gabriel học trường Montessori ở một làng quê mất hút một nơi nào đấy giữa nước Colombia xa xôi bên kia bờ Đại Tây Dương chính là truyện Nghìn lẻ một đêm.
Thành công của bộ Nghìn lẻ một ngày, ít nhất trong hơn một trăm năm đầu, không mấy kém. Từ tiếng Pháp, bộ truyện được dịch ra các tiếng Đức, Anh, Hà Lan, Đan Mạch, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư. Thế kỷ XVIII, riêng ở Pháp, Nghìn lẻ một ngày được tái bản mười tám lần, thế kỷ XIX mười lăm lần... Cũng như Nghìn lẻ một đêm, bộ Nghìn lẻ một ngày được đưa vào giáo trình văn học bậc trung học phổ thông ở Pháp từ thế kỷ XVIII, và gợi đề tài, cảm hứng cho nhiều bậc tài danh sáng tạo những công trình văn học, nghệ thuật xuất sắc. Chỉ một trường đoạn trong Chuyện Hoàng tử Calap và công chúa nước Trung Hoa đã gợi hứng để các tác gia nước Ý sáng tạo nên hai tác phẩm công diễn: kịch nói Turandot của bá tước Gozzi (1720-1806) và nhạc kịch cùng tên của nhạc sĩ tên tuổi Giacomo Puccini (1858-1924). Puccini là tác giả tài hoa về nhiều loại hình âm nhạc: giao hưởng, nhạc thính phòng, nhạc tôn giáo... ông là người chuyển thể thành công nhiều tác phẩm văn học sang nhạc phẩm, trong đó có Ma non Lescaut (1893), La Bohême (1896), Madame Butterfly (1904)... Lại vẫn như Nghìn lẻ một đêm, bộ Nghìn lẻ một ngày cũng được biên tập để xuất bản cho độc giả trẻ tuổi. Nổi tiếng nhất ở Pháp là bộ sách của Nhà xuất bản Delagrave, Paris, tuy đã lược bớt một số truyện vẫn dày tới 813 trang và 500 minh họa. Truyện Nàng Repxima đức hạnh, truyện cuối cùng của bộ Nghìn lẻ một ngày, không rõ từ bao giờ trở thành một câu chuyện dân gian phổ biến nhất tại Thụy Điển.
Bộ Nghìn lẻ một ngày tuy ra đời sau khi bộ Nghìn lẻ một đêm tỏa sáng chói lọi, vẫn được nhiều nhà văn và học giả đương thời đánh giá cao. Văn hào và triết gia đi tiên phong Thế kỷ ánh sáng: Voltaire (1694-1778), người mà người ta đồn có lần cho rằng trong số các tác gia lỗi lạc cùng thời với ông như Jean Jacques Rousseau, Diderot, Montesquieu, Bernadin De Saint Pierre... chỉ mỗi một Lesage có thể sánh ngang văn tài của mình, đã đánh giá cao bộ Nghìn lẻ một ngày. Voltaire viết trong bộ Thời đại vua Louis XIV của ông như sau: “... Người ta đọc được của F. Pétis de la Croix Chuyện Thành Cát Tư Hãn và Chuyện Tamerlan (tức Timour-I Lang) dựa theo các tác gia cổ người A Rập, cùng nhiều tác phẩm có ích khác; tuy nhiên bản dịch bộ Nghìn lẻ một ngày của ông là cuốn sách có nhiều người đọc hơn cả...” Tại một bài khác, Voltaire lại viết: “Nghìn lẻ một đêm hay Nghìn lẻ một ngày đều giống như nhau thôi, đều cùng là Nghìn lẻ Một” - ý nhà văn muốn nói cả hai tác phẩm cùng hấp dẫn, phong phú tuyệt vời không mấy khác nhau.
Tu sĩ J. P. Nicéron (1685-1738), một tác gia chuyên về tiểu sử các nhà văn Pháp thế kỷ XVIII bình: “Các truyện trong Nghìn lẻ một đêm do A. Galland dịch thường có nhược điểm là không mấy giống thực tế. Các truyện trong Nghìn lẻ một ngày, do F. P. De La Croix dịch một phần từ tiếng Ba Tư tài tình hơn nhiều và gần thực tại hơn nhiều, tuy không phải sự thần kỳ không ngự trị trong nhiều truyện, đúng như sở thích của những người phương Đông.”
R. F. Burton (1821-1890) là dịch giả thành công nhất trong số những người dịch bộ Nghìn lẻ một đêm của A. Galland ra tiếng Anh, khẳng định: “Nghìn lẻ một ngày trên thực tế là một sáng tác. Trong phần lớn trường hợp, nhiều truyện kể trong bộ ấy là những sáng tác tài tình bắt nguồn từ chỗ vay mượn (các truyện dân gian) rồi diễn tả lại một cách rất tự do.”
- François Pétis de La Croix
- NXB Văn Học